ỨNG DỤNG GIẢI PHÁP CẤP NƯỚC BẰNG TRẠM BƠM LẤY NƯỚC TRỰC TIẾP TỪ BIỂN CHO KHU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN XÃ HOÀI MỸ VÀ HOÀI HẢI, HUYỆN HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH
Tóm tắt: Giải pháp cấp nước cho nuôi trồng thủy sản đang được nhiều nhà khoa học nghiên cứu, nhất là trong bối cảnh hiện nay tình hình nguồn nước cho nuôi trồng, sản xuất ngày càng ô nhiễm nghiêm trọng, dẫn đến dịch bệnh thường xuyên xảy ra, năng suất nuôi trồng bị ảnh hưởng mạnh, chất lượng không đảm bảo.
Biển được biết đến là nguồn cung cấp nước dồi dào, chất lượng nước tương đối tốt và ổn định. Tuy nhiên, việc đưa nước từ biển vào để phục vụ nuôi trồng là một vấn đề rất khó khăn, nhất là ở các vùng có địa hình cao hơn mực nước triều, vùng bị chia cắt,…. Có rất nhiều giải pháp đặt ra, song mỗi phương án khai thác đều có những ưu nhược điểm riêng. Qua phân tích cho thấy việc xây dựng trạm bơm lấy nước trực tiếp từ biển để cấp nước cho nuôi trồng thủy sản mang lại hiệu quả cao. Để áp dụng giải pháp này cho khu nuôi trồng thủy sản xã Hoài Mỹ và Hoài Hải, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định cần đi sâu vào phân tích tình hình thực tế vùng nuôi và vận dụng các kiến thức mang tính thực tiễn cao.
Xem thêm:
ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam có đường bờ biển dài hơn 3.260 km với nhiều cửa sông và đầm phá ven biển, tạo nên một vùng diện tích đất ngập nước rộng lớn và các cồn cát bãi ngang chạy dọc ven biển có tiềm năng rất lớn trong việc phát triển ngành sản xuất muối và nuôi trồng thủy sản (NTTS). Theo Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch tháng 12/2015 ngành Nông nghiệp và PTNT, toàn quốc có 15.172 ha đất làm muối và 1,2 triệu ha đất nuôi trồng thủy sản các loại, tạo ra 1,5 triệu tấn muối và 3,5 triệu tấn thủy sản với giá trị khoảng 144 nghìn tỷ đồng, mang lại giá trị kinh tế và xuất khẩu cao, chiếm tỷ trọng 4,2% giá trị xuất khẩu và 3,3% GDP của cả nước năm 2015 (Bộ NN&PTNT, 2015).
Riêng trong lĩnh vực NTTS, do nguồn vốn đầu tư còn hạn chế nên việc phát triển vùng nuôi không đi đôi với việc đầu tư đồng bộ về hạ tầng, hệ thống cấp thoát nước. Hệ thống cấp thoát nước không phân định rõ, dần dần làm ô nhiễm nguồn nước trong khu vực dẫn đến dịch bệnh và năng suất nuôi trồng bấp bênh. Trước tình hình trên, nhiều hộ nuôi tự khoan giếng để lấy nước nuôi trồng, số lượng giếng khoan ngày càng nhiều gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến vùng nước ngầm làm cho tình hình ngày càng thêm nghiêm trọng.
Để phát triển NTTS một cách bền vững, các công trình thủy lợi là rất cần thiết. Chúng làm nhiệm vụ cung cấp và tiêu thoát nước, là những hạng mục công trình không thể thiếu trong tất cả các vùng nuôi.
Trong phạm vi bài báo này, tác giả xin được khái quát một cách chung nhất về việc ứng dụng giải pháp cấp nước bằng trạm bơm lấy nước trực tiếp từ biển cho khu NTTS xã Hoài Mỹ và Hoài Hải, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
KHU VỰC NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG
Vùng nuôi trồng thủy sản xã Hoài Hải và Hoài Mỹ được xây dựng trên khu đất trũng thấp nằm ở khu vực hạ lưu sông Lại Giang, dọc hai bên nhánh sông Nước Lợ, kéo dài từ cầu Hoài Hải đến sát khu tái định cư Diêu Quang, trên địa bàn các thôn Kim Giao Nam, Kim Giao Thiện, Diêu Quang (xã Hoài Hải) và thôn Công Lương (xã Hoài Mỹ), huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
Toàn bộ khu nuôi tôm xã Hoài Hải và Hoài Mỹ có diện tích tổng cộng là 70,0 ha, trong đó đã hình thành 97 ao nuôi tôm với diện tích mặt nước 45,12 ha, còn lại là diện tích sông suối và đất hoang chưa sử dụng. Trong số đó thôn Công Lương (xã Hoài Mỹ) có 34 ao diện tích mặt nước 16,82 ha; thôn Kim Giao Nam, Kim Giao Thiện, Diêu Quang (xã Hoài Hải) có 63 ao diện tích mặt nước 28,30 ha.
Để cấp nước cho NTTS, hiện nay các hộ nuôi tôm đều sử dụng giếng khoan khai thác nước ngầm tại chỗ và khoan giếng dọc sát mép biển bơm vào ống đưa về các ao nuôi. Các giếng khoan được bố trí rải rác trên bờ các ao nuôi và trong các khu rừng phòng hộ ven biển, trung bình mỗi hồ có 2-3 giếng. Do việc khai thác quá mức nên nguồn nước ngầm tại chỗ đã bị sụt giảm, mực nước ngầm tại khu nuôi hiện tại sâu 17-18m, so với năm 2000 đã hạ thấp 1,3-1,5m, đồng thời nước thải và chất ô nhiễm theo các hố khoan xâm nhập vào tầng nước ngầm gây ô nhiễm nguồn nước.
Nhằm khắc phục tình trạng này, Nhà nước đã quyết định đầu tư xây dựng một hệ thống cấp nước hoàn chỉnh và chủ động, với tiêu chí đáp ứng các chỉ tiêu chất lượng phục vụ NTTS và bảo vệ môi trường, ổn định trong các điều kiện thời tiết. Hệ thống bao gồm 01 công trình lấy nước trực tiếp từ biển và hệ thống đường ống phân phối nước đến tận các ao nuôi bằng ống HDPE có van điều tiết và đồng hồ đo đếm lưu lượng cho từng ao nuôi.
GIỚI THIỆU GIẢI PHÁP CÔNG NGHỆ
Các loại giải pháp cấp nước cho khu nuôi trồng thủy sản ven biển
- Cấp nước tự chảy, lấy nước từ các cửa sông hoặc đầm phá thông qua hệ thống kênh, áp dụng đối với các vùng nuôi có địa hình thấp và nguồn nước chưa bị ô nhiễm;
- Cấp nước bằng động lực, lấy nước từ các giếng khoan hoặc bơm nước trực tiếp từ biển, áp dụng đối với các vùng nuôi có địa hình cao không thể lấy nước tự chảy, vùng ven biển cửa sông có nguồn nước bị ô nhiễm, vùng có địa hình chia cắt, v.v
Lựa chọn giải pháp
Xuất phát từ thực trạng, kết hợp với phân tích điều kiện thực tế của vùng nuôi, nhận thấy:
- Phía Bắc vùng nuôi cách cửa sông Lại Giang khoảng 1.000m, vùng nuôi có địa hình không cao lắm nên giải pháp cấp nước tự chảy, lấy nước từ cửa sông Lại Giang thông qua hệ thống kênh đã áp dụng từ lâu nhưng không mang lại hiệu quả bởi chất lượng nước mặt không đảm bảo và phụ thuộc vào chế độ triều.
- Hiện tại, giải pháp tự phát của các hộ nuôi là khoan giếng khai thác nước ngầm tại chỗ và khoan giếng dọc sát mép biển rồi bơm vào ống đưa về các ao nuôi. Giải pháp này ban đầu đã mang lại hiệu quả nhưng sau thời gian đã gây ra hậu quả làm sụt giảm mực nước ngầm, trữ lượng nước hạn chế và làm nguồn nước ngầm bị ô nhiễm.
- Nhận thấy vùng nuôi trải dài và cách mép nước biển chỉ khoảng 200m nhưng phía Đông vùng nuôi bị chia cắt với biển bởi dải đất cao với khu dân cư đông đúc nên giải pháp cấp nước bằng trạm bơm lấy nước trực tiếp từ biển được áp dụng là phù hợp với tình hình NTTS hiện tại tại xã Hoài Hải và Hoài Mỹ, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
Lựa chọn công nghệ
Tiêu chí lựa chọn công nghệ
Các tiêu chí chính để lựa chọn công nghệ gồm:
- Đáp ứng các điều kiện nuôi tôm an toàn vệ sinh thực phẩm theo quy định của Bộ Nông nghiệp và PTNT;
- Bền vững với môi trường;
- Phù hợp tập quán sản xuất hiện tại của người dân;
- Khả thi về giải pháp xây dựng và cung cấp thiết bị;
- Thuận tiện cho việc quản lý và vận hành công trình.
Các giải pháp công nghệ kỹ thuật chính
Trên cơ sở đó chúng tôi đề xuất giải pháp công nghệ áp dụng cho dự án Xây dựng cơ sở hạ tầng vùng nuôi tôm xã Hoài Hải và Hoài Mỹ như sau:
a) Về phương pháp tính toán
- Chọn nguồn nước cấp:
Quy trình nuôi tôm cho vùng nuôi tôm xã Hoài Hải và Hoài Mỹ là quy trình nuôi tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei Boone, 1931) theo hình thức thâm canh, áp dụng theo Quy chuẩn quốc gia về cơ sở nuôi tôm nước lợ – Điều kiện đảm bảo vệ sinh thú y, bảo vệ môi trường và an toàn thực phẩm (QC 02-19:2014/BNN&PTNT).
- Tính toán thông số công trình đầu mối:
Trên cơ sở yêu cầu dùng nước của vùng và thời gian cấp nước, tính được lưu lượng cần thiết để cấp nước cho vùng nuôi. Từ đó lựa chọn được máy bơm nước Ebara có công suất phù hợp cho việc cấp nước.
b) Về giải pháp thiết kế
Giải pháp thiết kế được lựa chọn phải chứng minh là phù hợp với quy mô, tính chất công trình, mang lại hiệu quả về kinh tế – kỹ thuật. Đồng thời tiếp tục nghiên cứu và áp dụng những tiến bộ mới của khoa học kỹ thuật để công trình ngày càng hoàn thiện, bền vững, sử dụng nhiều vật liệu địa phương, giá thành hạ, dễ dàng vận hành và duy tu, sửa chữa.
c) Về giải pháp thi công
Phù hợp với điều kiện vừa thi công vừa sử dụng, mặt bằng thi công chật hẹp, thường xuyên bị tác động bởi thủy triều và khả năng đáp ứng của các phương tiện vận chuyển, tải trọng cho phép của đường giao thông. Đồng thời phải phù hợp với năng lực máy móc, thiết bị, con người của các nhà thầu địa phương.
d) Về giải pháp quản lý
Đơn giản, dễ dàng vận hành, tháo lắp sửa chữa và thay thế vật tư. Có các công trình kiểm soát và đo lưu lượng để làm cơ sở xác định lượng nước tiêu thụ của từng ao nuôi.
Xem thêm:
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Chọn nguồn nước cấp
- Vị trí lấy nước: lấy nước từ biển bằng trạm bơm, vị trí đặt trạm bơm nằm sát mép nước biển, tại thôn Kim Giao Thiện, xã Hoài Hải, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
- Chất lượng nguồn nước: đã lấy 03 mẫu nước để thí nghiệm các chỉ tiêu lý – hóa, các kết quả cho thấy tại khu vực lấy nước chất lượng nguồn nước biển ven bờ rất tốt, đảm bảo các chỉ tiêu phục vụ NTTS.
- Trữ lượng: do lấy nước trực tiếp từ biển nên trữ lượng nước là tương đối dồi dào.
Tính toán nhu cầu dùng nước và chọn thông số bơm
Tính toán nhu cầu dùng nước là để xác định công suất trạm bơm, chọn số lượng máy bơm và đường ống cấp nước cho các tiểu vùng dùng nước.
Bảng 1. Nhu cầu dùng nước qua từng giai đoạn phát triển của tôm (tính cho 1ha tôm)
1Viện Đào tạo và Khoa học ứng dụng miền Trung
Từ khóa: Cấp nước, trạm bơm nước biển, nuôi trồng thủy sản, Hoài Hải, Hoài Mỹ.